xây nhà bằng gạch không nung
Khái niệm
Gạch không nung là loại gạch xây, sau khi được tạo hình thì tự đóng rắn đạt các chỉ số về cơ học: Cường độ nén, uốn, độ hút nước... mà không cần qua nhiệt độ. Độ bền của viên gạch không nung được gia tăng nhờ lực ép hoặc rung hoặc cả ép lẫn rung lên viên gạch và thành phần kết dính của chúng.
Về bản chất của sự liên kết tạo hình, gạch không nung khác hẳn gạch đất nung. Quá trình sử dụng gạch không nung, do các phản ứng hoá đá của nó trong hỗn hợp tạo gạch sẽ tăng dần độ bền theo thời gian. Tất cả các tổng kết và thử nghiệm trên đã được cấp giấy chứng nhận: Độ bền, độ rắn viên gạch không nung tốt hơn gạch đất sét nung đỏ và đã được kiểm chứng ở tất cả các nước trên thế giới: Mỹ, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản,...
Gạch không nung ở Việt Nam đôi khi còn được gọi là gạch block, gạch blốc, gạch bê tông, gạch block bê tông, gạch xi măng,... tuy nhiên với cách gọi này thì không phản ánh đầy đủ khái niệm về gạch không nung. Mặc dù gạch không nung được dùng phổ biến trên thế giới nhưng ở Việt Nam gạch không nung vẫn chiếm tỉ lệ thấp.
Gạch nung có khoảng từ 70 đến 100 tiêu chuẩn quốc tế, với kích thước tiêu chuẩn khác nhau. Tại Việt Nam gạch này có kích thước phổ biến là 210x100x60mm, gạch không nung thì có khoảng 300 tiêu chuẩn quốc tế khác nhau với kích cỡ viên gạch khác nhau, sức nén viên gạch không nung tối đa đạt 35MPa.
Sản phẩm gạch không nung có nhiều chủng loại trên một loại gạch để có thể sử dụng rộng rãi từ những công trình phụ trợ nhỏ đến các công trình kiến trúc cao tầng, giá thành phù hợp với từng công trình. Có nhiều loại dùng để xây tường, lát nền, kề đê và trang trí.
Hiện nay, gạch không nung đã khẳng định chỗ đứng vững chắc trong các công trình, nó đang dần trở nên phổ biến hơn và được ưu tiên phát triển. Có rất nhiều công trình sử dụng gạch không nung, từ công trình nhỏ lẻ, phụ trợ cho đến các công trình dân dụng, đình chùa, nhà hàng, sân golf, khu nghỉ dưỡng, cao ốc,...
Ưu điểm
So sánh hiệu quả kinh tế kỹ thuật sản xuất và sử dụng, sản phẩm vật liệu xây dựng không nung có nhiều tính chất vượt trội hơn vật liệu nung. Đó là:
- Không dùng nguyên liệu đất sét để sản xuất.. Đất sét chủ yếu khai thác từ đất nông nghiệp, làm giảm diện tích sản xuất cây lương thực, đang là mối đe dọa mang tính toàn cầu hiện nay.
- Không dùng nhiên liệu như than, củi.. để đốt. tiết kiệm nhiên liệu năng lượng, và không thải khói bụi gây ô nhiễm môi trường.
- Sản phẩm có tính chịu lực cao, cách âm, cách nhiệt phòng hoả, chống thấm, chống nước, kích thước chuẩn xác, quy cách hoàn hảo hơn vật liệu nung. Giảm thiểu được kết cấu cốt thép, rút ngắn thời gian thi công, tích kiệm vữa xây, giá thành hạ.
- Có thể tạo đa dạng loại hình sản phẩm, nhiều màu sắc khác nhau, kích thước khác nhau, thích ứng tính đa dạng trong xây dựng, nâng cao hiệu quả kiến trúc.
- Cơ sở sản xuất có thể phát triển theo nhiều quy mô khác nhau, không bị khống chế nhiều về mặt bằng sản xuất. Suất đầu tư thấp hơn vật liệu nung…
- Được sản xuất từ công nghệ, thiết bị tiên tiến của quốc tế, nó có các giả pháp khống chế và sự đảm bảo chất lượng hoàn thiện, quy cách sản phẩm chuẩn xác. Có hiệu quả trong xây dựng rõ ràng, phù hợp với các TCVN do bộ xây dựng công bố.
Các đặc điểm công nghệ gạch không nung:
- Nguyên liệu đầu vào thuận lợi không kén chọn nhiều vô tận.
- Máy móc thiết bị dây chuyền tự sản xuất chế tạo được cả trong và ngoài nước.
- Xây dựng nhà máy ở khắp mọi địa hình từ hải đảo tới đỉnh núi cao.
- Phụ gia vật tư sẵn có trên thị trường.
- Sản xuất từ thủ công tới tự động hóa hoàn toàn
- Chất lượng viên gạch tiêu chuẩn tốt.
- Giá thành hạ hơn so với gạch nung.
Một số loại gạch không nung hiện nay đang sử dụng:
Gạch papanh:
Gạch không nung được sản xuất từ phế thải công nghiệp: Xỉ than, vôi bột được sử dụng lâu đời ở nước ta. Gạch có cường độ thấp từ 30–50 kg/cm2 chủ yếu dùng cho các loại tường ít chịu lực.
Gạch Block hay Gạch Xi măng- cốt liệu:
Gạch được hình thành từ đá vụn, cát, xi măng, có cường độ chịu lực cao, có thể xây nhà cao tầng. Ưu điểm nổi trội là cách âm, cách nhiệt tốt, cứng chắc và mang vẻ cổ xưa nên thường được dùng xây tường rào, nhà xưởng, trang trí. Nhược điểm của loại gạch này là nặng, to, khó xây nên chưa được áp dụng rộng rãi trên thị trường.
Gạch xi măng - cát:
Gạch được tạo thành từ cát và xi măng.
Gạch không nung tự nhiên:
Từ các biến thể và sản phẩm phong hóa của đá bâzn. Loại gạch này chủ yếu sử dụng ở các vùng có nguồn puzolan tự nhiên, hình thức sản xuất tự phát, mang tính chất địa phương, quy mô nhỏ ...
Gạch siêu nhẹ:
Sản suất bằng công nghệ bọt khí. Thành phành cơ bản: Xi măng, tro bay nhiệt điện, cát mịn, phụ gia tạo bọt. Sản phẩm đã được kiểm định chất lượng vượt TCXDVN: 2004 về cường độ chịu nén đối với tỷ trọng D800.
Gạch bê-tông khí chưng áp:
Tên tiếng Anh là Autoclaved Aerated Concrete – gọi tắt là AAC được rất nhiều nước trên thế giới ứng dụng rộng rãi với rất nhiều ưu điểm như thân thiện với môi trường, siêu nhẹ, bền, tiết kiệm năng lượng hóa thạch do không phải nung đốt truyền thống, bảo ôn, chống cháy, cách âm, cách nhiệt, chống thấm rất tốt so với vật liệu đất sét nung. Nó còn được gọi là gạch bê-tông siêu nhẹ vì tỷ trọng chỉ bằng 1/2 hoặc thậm chí là chỉ bằng 1/3 so với gạch đất nung thông thường. Công trình xây dựng sẽ giảm tải, giảm chi phí xử lý nền móng và hệ thống kết cấu, góp phần giảm mức đầu tư xây dựng công trình từ 7- 10%, đẩy nhanh tiến độ thi công và hoàn thiện phần bao che của công trình lên 2 - 5 lần. Ngoài ra, khả năng cách âm và cách nhiệt của bê tông nhẹ rất cao, làm cho nhà ấm về mùa đông, mát về mùa hè, tiết kiệm điện năng suởi hoặc điều hòa nhiệt độ... Kích thước thành phẩm lớn và chính xác (100mm x 200mm x 600mm) giúp rút ngắn thời gian thi công và kể cả thời gian hoàn thiện.
Với thành phần cấu tạo là vật liệu trơ và các chất vô cơ, gạch bê-tông siêu nhẹ này hoàn toàn không độc hại, có độ bền rất cao và không bắt lửa. Ngoài ra, với cấu trúc thông thoáng, nó còn có thể tự khuếch tán hơi nước, giải phóng độ ẩm và loại trừ các vấn đề liên quan đến nẩm mốc – đặc biệt là trong điều kiện thời tiết nắng nóng của khí hậu vùng nhiệt đới, vùng biển và vùng có độ ẩm cao như ở khu vực miền Bắc Việt Nam.
Gạch không nung tại Việt nam:
Nước ta hiện nay tiêu thụ 20 – 22 tỷ viên gạch một năm, đến năm 2020, lượng gạch cần cho xây dựng ước tính gấp đôi, 40 tỷ viên.
Để đạt được lượng gạch này, cần một lượng đất khoảng 600 triệu m3, tương đương 30.000 ha đất canh tác. Hay nói nôm na, mỗi năm phải nướng diện tích một xã vào lò gạch. Gạch nung còn tiêu tốn nhiều năng lượng than, củi. Những lò gạch thải vào bầu khí quyển một lượng khí độc lớn.
Trong bối cảnh đó, việc sử dụng gạch không nung là xu thế tất yếu của thế giới. Việt Nam cũng đã có gạch không nung, nhưng tỷ lệ sử dụng rất thấp, chỉ chiếm 4 – 5% sản lượng gạch toàn quốc. Lý do, ngoài thói quen sử dụng gạch nung từ lâu nay, còn do dây chuyền chủ yếu nhập, công nghệ phức tạp nên giá thành gạch cao. Gạch không nung đến nay vẫn là món hàng xa xỉ.
Chính sách:
Với những vấn đề trên, gạch nung đang dần là một điểm yếu về công nghệ quan trọng trong công nghiệp xây dựng ở nước ta và rất cần được quan tâm. Chính vì vậy theo Quyết định số 115/2001/QĐ-TTg về việc quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp vật liệu xây dựng đến năm 2020 và định hướng đến 2020 đã được thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 01/08/2001, phải phát triển gạch không nung thay thế gạch đất nung từ 10 đến 15% vào năm 2005 và 25% đến 30% vào năm 2010, xóa bỏ hoàn toàn gạch đất nung thủ công vào năm 2010.
- Nghị định 121/2008-TTG của Viện vật liệu xây dựng – Bộ xây dựng trình thủ tướng đã phê duyệt đưa ra lộ trình đưa gạch không nung vào thay thế vật liệu nung quy hoạch tới năm 2020. Theo lộ trình đã được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, tỷ lệ vật liệu xây không nung trên tổng số vật liệu xây vào các năm 2010 sẽ là 10% để đến năm 2015 tăng lên từ 20-25% và bứt phá vào năm 2020 với 30 đến 40%; ứng dụng các công nghệ mới trong sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm vật liệu mới tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường và phát triển bền vững.
- Công văn 2383/BXD – VLXD ngày 27/11/2008 của Bộ xây dựng gửi các Sở xây dựng các tỉnh thành phố phát triển vật liệu xây, gạch không nung thay thế cho gạch ngói nung để giảm ô nhiễm môi trường.
- UBND TP Hà Nội đã chỉ thị nghiêm cấm sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất gạch ngói, đồng thời không cho phép các xã, thôn, ký hợp đồng mới, gia hạn hợp đồng về sản xuất gạch bằng lò thủ công gây ô nhiễm môi trường tại địa phương. Bên cạnh đó, Hà Nội cũng không cho phép tận dụng đất đào từ các công trình nuôi trồng thủy sản, kênh mương, ao hồ để sản xuất gạch ngói bằng lò thủ công. UBND TP HCM khuyến khích sử dụng gạch không nung vào các công trình sử dụng vốn ngân sách, công trình nhà cao tầng, công trình nhà ở, ký túc xá sinh viên... Tất cả nhằm mục tiêu phát triển các loại VLXD thân thiện với môi trường bằng công nghệ tiên tiến. Trong nội dung của đồ án quy hoạch phát triển VLXD TPHCM đến năm 2020 thì đến năm 2015, các cơ sở khai thác, chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) có hàm lượng khí thải vượt quá quy định hoặc không có hệ thống xử lý chất thải phải chuyển đổi sản xuất, ứng dụng công nghệ tiên tiến hoặc phải ngừng sản xuất.
- Quyết định phê duyệt chương trình phát triển vật liệu không nung đến năm 2020 ( Q567TTG_ngày 28-04-2010 ) >> Download quyết định tại đây !
Một số giải pháp Phát triển vật liệu xây dựng không nung:
Để thực hiện mục tiêu đạt 40% vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020 bằng 16,8 tỷ viên, trung bình mỗi năm phải đầu tư mới 1,6 tỷ viên. Căn cứ vào nguồn nguyên liệu của từng vùng, nhu cầu của thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng để đầu tư các cơ sở sản xuất VLXKN thích hợp.
Phát triển sản xuất VLXKN cốt liệu xi măng, cát, tro xỉ, mạt đá, trên các dây chuyền 3 triệu, 7 triệu, 15 – 40 triệu viên/năm ở các vùng nông thôn, miền núi, các KĐT, KCN, trước tiên thay thế các lò gạch thủ công. Loại vật liệu này chiếm 60 – 70% VLXKN vào năm 2020. Đầu tư sản xuất đá chẻ, đá ong, VLXKN từ đất đồi, từ phế thải xây dựng, phế thải công nghiệp (bùn đỏ) với các dây chuyền sản xuất trên 8 – 20 triệu viên TC/năm, chiếm khoảng 5% VLXKN.
Tập trung đầu tư phát triển VLXKN mới, bê tông nhẹ chiếm tỷ lệ 25 – 35%, tương đương 6,5 – 8 triệu m3 vào năm 2020. Trong đó bê tông khí chưng áp AAC có chất lượng cao, kích thước lớn, phù hợp với việc xây nhà cao tầng, công trình quy mô lớn ở các KĐT, cần được đầu tư sản xuất trên các dây chuyền hiện đại, công suất từ 100 – 400 nghìn m3/năm (có sản xuất tấm cốt thép nhẹ) là hướng phát triển chủ yếu. Bê tông bọt có chất lượng thấp hơn, kích thước nhỏ hơn, quy mô công suất hợp lý từ 10 – 30 nghìn m3/năm theo công nghiệp cơ giới hóa và một phần tự động hóa, thiết bị chế tạo trong nước với vốn đầu tư thấp sẽ được đầu tư ở các vùng có nhu cầu ít, đến năm 2020 sản lượng bê tông bọt chiếm khoảng 5% VLXKN.
1. Các giải pháp khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất VLXKN theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các chính sách ưu đãi về thuế, đầu tư, thuê đất, vốn vay… Chính sách khuyến khích sử dụng VLXKN vào công trình.
2. Các địa phương còn xây dựng và công bố quy hoạch sử dụng đất để sản xuất gạch đất sét nung, không sử dụng đất nông nghiệp. Ban hành các chính sách tăng trưởng tỷ lệ gạch rỗng đất sét nung lên 80% vào năm 2020. Tăng thuế tài nguyên đất sét làm VLXD.
3. Hoàn thiện công nghệ sản xuất VLXKN, nghiên cứu sử dụng tất cả các nguồn phế thải công nghiệp. Nghiên cứu sản xuất phụ gia, chất tạo bọt và bột nhôm kỹ thuật chế tạo vữa xây, trát VLXKN.
4. Nâng cao năng lực cơ khí trong nước để chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN, để giảm nhập khẩu, phấn đấu đến năm 2020 không nhập khẩu.
5. Soát xét, hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn, kỹ thuật, các quy trình, quy phạm, hướng dẫn thi công và các định mức kinh tế kỹ thuật liên quan đến sản xuất và sử dụng VLXKN, tạo điều kiện cho các nhà tư vấn, thiết kế đưa VLXKN vào công trình.
6. Để đưa VLXKN vào cuộc sống cần phải tổ chức tốt công tác tuyên truyền, thông tin để cho các cơ quan quản lý Nhà nước, các chủ thể trong hoạt động xây dựng và mọi người dân nhận rõ những ưu điểm, lợi thế trong việc sản xuất, sử dụng VLXKN, đồng thời thấy được những tác động tiêu cực của việc sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung không theo quy hoạch, để tập trung mọi năng lực phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN, góp phần phát triển ngành công nghiệp VLXD nước ta hiện đại, bền vững.
Tiêu chuẩn vật liệu không nung:
Theo thống kê, cho đến thời điểm hiện tại đã có một số tiêu chuẩn về VLXKN và các tiêu chuẩn cho các loại vật liệu khác có thể sử dụng chung cho VLXKN (xem bảng liệt kê dưới đây)
TT
|
Số hiệu tiêu chuẩn
|
Tên tiêu chuẩn
|
1
|
TCXD 123: 1984
|
Gạch không nung- yêu cầu kỹ thuật
|
2
|
TCXD 191: 1996
|
Bê tông và vật liệu làm bê tông- yêu cầu kỹ thuật
|
3
|
TCXDVN 316: 2004
|
Blốc bê tông nhẹ- yêu cầu kỹ thuật
|
4
|
TCXDVN 317: 2004
|
Blốc bê tông nhẹ- phương pháp thử
|
5
|
TCVN 4459: 1987
|
Hướng dẫn pha trộn và sử dụng vữa xây dựng
|
6
|
TCVN 4085: 1985
|
Kết cấu gạch đá. Quy phạm thi công và nghiệm thu
|
7
|
TCVN 5573: 1991
|
Kết cấu gạch đá và gạch đá cốt thép. Tiêu chuẩn thiết kế
|
8
|
TCVN 5674: 1992
|
Công tác hoàn thiện trong xây dựng- thi công và nghiệm thu
|
9
|
TCVN 7959: 2008
|
Blốc bê tông khí chưng áp
|
10
|
TCVN 2118: 1994
|
Gạch canxi- silicat- yêu cầu kỹ thuật
|
11
|
TCVN 6776: 1999
|
Gạch bê tông tự chèn
|
12
|
TCVN 6477: 1999
|
Gạch blốc bê tông
|
13
|
TCVN 5775-1: 2007
|
Tấm 3D dùng trong xây dựng- phần 1: quy định kỹ thuật
|
TCVN 5775-2: 2007
|
Phương pháp thử
|
TCVN 5775-3: 2007
|
Hướng dẫn lắp dựng
|
Bên cạnh đó còn có các tiêu chuẩn liên quan không chỉ dành riêng cho VLXKN như yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử cho cốt liệu, phụ gia, nước trộn, vữa xây…
Đánh giá tổng quát và nhóm tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật cho VLXKN, trong quá trình theo dõi, quản lý công tác tiêu chuẩn chúng ta nhận thấy như sau:
1. Ngoại trừ hai tiêu chuẩn TCXDVN 136: 2004 và TCXDVN 317: 2004 là quy định riêng và chi tiết cho bê tông nhẹ dạng block, các tiêu chuẩn còn lại đều quy định chung cho nhiều loại sản phảm vật liệu khác nhau.
2. Các tiêu chuẩn về thi công và nghiệm thu dùng riêng cho gạch xây không nung còn thiếu, sử dụng các tiêu chuẩn của gạch, đá dùng chung không đáp ứng yêu cầu đối với bê tông nhẹ và bê tông khí chưng áp.
3. Vữa xây trát dùng cho bê tông khí chưng áp và bê tông bọt có yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử khác hẳn so với gạch đất sét nung. Ngay cả gạch xi măng cốt liệu cũng cần có chế độ vữa xây trát khác với gạch đất sét nung hút nước rất mạnh nên vữa xây trát đòi hỏi hàm lượng nước cao hơn và còn phải thường xuyên giữ ẩm trong thời gian đầu mới hoàn thành khối xây khi gặp điều kiện nắng nóng gay gắt.
4. Tiêu chuẩn thiết kế công trình sử dụng VLXKN chưa có chuyên biệt riêng, nhất là đóoi với bê tông nhẹ và bê tông khí chưng áp. Đối với gạch xi măng cốt liệu có thể không cần có quy định riêng và vẫn có thể sử dụng chung với tiêu chuẩn thiết kế kết cấu gạch đá bình thường.
5. Các tiêu chuẩn trên còn chưa đồng bộ về nhiều mặt dẫn đến nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư cũng như người sản xuất, tiêu dùng, do vậy cũng là một nguyên nhân gián tiếp dẫn tới chậm đưa sản phẩm vào công trình.
6. Nói tóm lại hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật cho sử dụng VLXKN tuy đã được Bộ Xây dựng quan tâm, nghiên cứu soạn thảo và ban hành, song để phục vụ thúc đẩy cho chương trình phát triển gạch không nung thì còn thiếu nhiều và chưa đồng bộ, khó đáp ứng cho kế hoạch thúc đẩy nhanh chóng VLXKN thay thế gạch đất sét nung hiện nay nhằm mục tiêu lớn là bảo vệ tài nguyên đất trồng trọt và ngăm chặn ô nhiễm môi trường do các lò gạch thủ công phát triển tràn lan gây nên.
( Tổng hợp từ nhiều nguồn tin )
Chỉnh sửa bởi NĐH |